Châu Phong - Tùng Ảnh - mảnh đất sơn thủy hữu tình, xưa được coi là “Hồng Lam văn vật”, quê hương của nhiều nhà khoa bảng và yêu nước mà tên tuổi nhiều người trong họ gắn liền với những sự kiện trọng đại trên các lĩnh vực văn hóa, lịch sử và chính trị của đất nước.
Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, người dân nơi đây đã sớm xây dựng cho quê hương những truyền thống quý báu: cần cù, sáng tạo trong lao động; hiếu học, học giỏi; đặc biệt là truyền thống khoa bảng, yêu nước và cách mạng. Những truyền thống đó đã và đang góp phần làm rạng ngời phẩm chất cao quý của con người, quê hương Tùng Ảnh, của đất nước và của dân tộc Việt Nam.
Từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhất là từ khi Chi bộ Đảng Cộng sản Việt Yên được thành lập và phát triển, trực tiếp lãnh đạọ sự nghiệp cách mạng, Nhân dân Châu Phong - Tùng Ảnh đã phát huy cao độ những truyền thống tốt đẹp của quê hương, vượt qua mọi thách thức, góp phần xứng đáng vào những thắng lợi to lớn chống thực dân Pháp, phát xít Nhật và nhất là đế quốc Mỹ xâm lược cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Để ghi nhận, tôn vinh, bảo tồn những giá trị lịch sử vẻ vang và những thành quả to lớn trên chặng đường đấu tranh cách mạng của Nhân dân Châu Phong - Tùng Ảnh dưới sự lãnh đạo trực tiếp của tổ chức cơ sở Đảng, làm tư liệu giáo dục cho các thế hệ người dân trong xã
Tùng Ảnh - xã phía Tây Bắc của huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh có địa giới hành chính như sau: Phía Bắc giáp xã Trường Sơn. Phía Nam giáp xã Tân Dân (Đức Long và Đức Lập cũ) và xã Hòa Lạc (Đức Hòa và Đức Lạc cũ). Phía Đông giáp thị trấn huyện lỵ của huyện Đức Thọ (Đức Yên và thị trấn cũ), cách trung tâm thị trấn khoảng 02 km về phía Đông. Phía Tây giáp huyện Hương Sơn.
Tọa độ địa lý của xã được xác định là 18°31′31″ Vĩ Bắc và 105°34′01″ Kinh Đông.
Xét về mặt địa hình, đây là một vùng đất đã được các sách xưa biên chép là “Sơn kỳ - Thủy tú”, với Tam Soa - nơi hội tụ của ba dòng sông: Ngàn Sâu, Ngàn Phố và sông La như 3 dải lụa cùng hướng về Tùng Lĩnh với hình tượng thông reo trên mặt sóng vỗ, hình thành cái thế mà các Nho sĩ thường gọi là “Tam Long tranh châu”3. Nếu bên kia sông La, trải dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam là dãy Thiên Nhẫn (nghìn đỉnh) thì bên này sông Ngàn Sâu, dãy Trà Sơn với Tùng Lĩnh4 (rú Thông) thuộc Tùng Ảnh liên kết thành bức trường thành thiên nhiên trấn ngự phía Tây Nam địa bàn xã trong thế phân biên với các xã vùng Thượng Đức. Trên cơ sở đó, có thể phân địa hình của Tùng Ảnh thành hai khu vực có đặc điểm khác nhau rất rõ: Phía Nam là vùng núi và phía Bắc là đồng bằng. Ranh giới của hai vùng chính là địa giới ba xã Lê Lĩnh - Việt Yên Hạ - Yên Đồng trước đây hay Đức Sơn và Đức Phong từ năm 1954 - 1978.
Vùng đồi núi là dải duyên sơn1 thuộc dãy Trà Sơn, có độ cao không lớn nên có thể coi như là một vùng trung du. Địa hình vùng này gồm nhiều ngọn đồi nhỏ, thoai thoải và cũng bị chia cắt bởi các khe hói được tạo thành trong quá trình phân hóa đất đai, tạo võ trái đất, gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, giao thương, quy hoạch và xây dựng cơ bản. Vùng duyên sơn có một số ngọn đồi, núi gắn liền với các sự kiện lịch sử chống ngoại xâm như Châu Sơn, Mặc Sơn, Nê Sơn, Tùng Lĩnh... Trên dải đất này, diện tích trồng màu và cây ăn quả chiếm phần lớn. Diện tích trồng lúa chủ yếu nằm dọc các khe suối và dưới chân núi.
Vùng đồng bằng dọc sông La là vùng duyên giang2, vốn tồn tại từ rất lâu. Ngoài một số ao, hồ nhỏ được hình thành trong quá trình đắp đê La Giang (từ 1934 - 1939) thì các khu vực còn lại có độ chênh cao không đáng kể nên đây là vùng đất phì nhiêu do được bồi đắp phù sa hàng nghìn năm trước khi chưa có đê La Giang. Vì thế, đây không những là vùng trồng lúa và các cây hoa màu mà còn là nơi hội tụ dân cư từ nhiều vùng quê khác nhau trong quá trình phát triển của lịch sử với nhiều nghề thủ công truyền thống.
Tùng Ảnh có diện tích đất tự nhiên gần 900 ha. Trong đó, một nửa là đất bán sơn địa, một nửa là đồng bằng. Tổng diện tích đất trồng trọt hiện nay khoảng trên 400 ha. Bình quân đất tự nhiên khoảng 1.200m2/người, đất canh tác khoảng 500m2/người.
Cũng như các xã thuộc Bắc Trung Bộ, Tùng Ảnh chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới, gió mùa, nóng và ẩm của tiểu vùng khí hậu Bắc Trung Bộ. Dấu ấn quan trọng mà mỗi người dân ở đây cảm nhận được là mỗi năm có 4 mùa khá rõ: Mùa Xuân ấm áp, mưa gió thuận hòa, cây cối đâm chồi nảy lộc, là mùa tốt nhất trong năm. Mùa hè, nhiệt độ tăng cao, gió Tây Nam (gió Lào) thổi mạnh, gây nóng bức. Tuy nhiên, do có sự cân bằng sinh thái, từ cuối chiều đến nửa đêm trong mùa thường có gió mùa Đông Nam (gió Nồm) thổi từ biển Đông vào mang theo nhiều hơi nước, làm dịu bớt cái oi bức của mùa hè. Mùa Thu, nhiệt độ ôn hòa nhưng mưa gió thất thường, là mùa thường có giông bão, gây ngập lụt. Mùa Đông, do chịu ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc làm nhiệt độ xuống thấp, gây mưa phùn và lạnh giá.
Nóng và lạnh là cảm giác sâu sắc của khí hậu trong năm mà mỗi người dân trong vùng đều cảm nhận được. Vì thế, dựa vào 3 yếu tố: chế độ mưa, chế độ gió mùa, chế độ nhiệt, một cách tương đối có chia khí hậu của vùng thành hai mùa: mùa nóng và mùa lạnh. Mùa nóng thường bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc cuối tháng 10. Đây là thời gian chịu ảnh hưởng mạnh mẽ sự biến động của hai yếu tố là nhiệt độ tăng cao kèm theo gió mùa Tây Nam thổi mạnh, gây hiệu ứng “phơn”1, làm cho không khí trở nên oi nồng (nóng - bức) và sự bay hơi của nước rất cao. Vì thế, trước đây, khi chưa có hệ thống thủy nông, mùa này thường bị hạn nặng, đất đai nứt nẻ nên việc canh tác gặp rất nhiều khó khăn, nhiều năm không sản xuất được. Tuy vậy, từ buổi chiều đến nửa đêm thường có gió mùa Đông Nam (gió Nồm) thổi từ biển Đông vào làm cho không khí đỡ oi nồng. Đồng thời, đây cũng là mùa mưa, bão và lũ lụt. Hàng năm, thường có từ 2 đến 4 cơn bão mạnh qua khu vực, gây nhiều thiệt hại cho Nhân dân. Trước đây, khi kinh tế chưa phát triển, nhà cửa còn tạm bợ, bão lụt là nỗi kinh hoàng của Nhân dân. Mùa lạnh thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau. Cũng như mùa nóng, đây là thời gian chịu ảnh hưởng của hai yếu tố là gió mùa Đông Bắc, nhiệt độ giảm thấp, gây lạnh giá và mưa phùn, làm ảnh hưởng lớn đến sinh hoạt, sản xuất của Nhân dân, sức khỏe của gia súc và con người. Những năm gần đây, do tác động của sự biến đổi bất thường của khí hậu, làm cho chu kỳ thời tiết và khí hậu thay đổi bất thường, trong đó hiện tượng La Nina, El Nino làm hiệt độ nóng lên, rét đậm, rét hại, ảnh hưởng xấu đến đời sống của con người, cây trồng, vật nuôi và sản xuất của người dân.
Tùng Ảnh là một trong những xã có hệ thống giao thông thủy - bộ thuận lợi vào loại nhất huyện. Nơi đây có Quốc lộ 8A thuộc hệ thống vận tải Châu Á (AH1), nối với Đường Hồ Chí Minh, với Quốc lộ 13 của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào tại Cửa khẩu Quốc tế cầu Treo (Hương Sơn); có Tỉnh lộ 5, Tỉnh lộ 28 chạy qua; có sông La bốn mùa thuyền bè tấp nập ngược xuôi; có kênh C1 thuộc Trạm bơm Linh Cảm với vị trí đầu nguồn rất thuận lợi trong việc cấp nước cho sản xuất nông nghiệp2; có đê La Giang và đường sắt Bắc Nam với ga Yên Trung3 gần kề. Nối liền với các trục giao thông nói trên, hệ thống đường liên thôn, liên xã ngày càng mở rộng, đã được bê tông hóa, nhựa hóa tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu kinh tế và sinh hoạt của Nhân dân trong và ngoài xã. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, từ 2005, thực hiện xây dựng Nông thôn mới theo tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh, nhất là từ năm 2010, thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông thôn mới của Chính phủ, một số thôn trên địa bàn đã và đang hình thành cụm công nghiệp, các tiền thị tứ, từng bước làm thay đổi diện mạo kiến trúc nông thôn Tùng Ảnh theo hướng đô thị.
Về mặt lịch sử, Tùng Ảnh là một vùng đất đã được định hình từ thời Lý, Trần với tên gọi là Quyết Viết, gồm 3 thôn: Tùng Ảnh, Nguyệt Đàm và Nghĩa Lăng4. Đến thời vua Lê Thánh Tông (1460 - 1497), Quyết Viết được chia làm 3 xã: Yên Việt, Yên Đồng và Yên Trung. Về sau, xã Yên Việt lại được phân chia làm 2 xã: Yên Việt Thượng và Yên Việt Hạ (Yên Việt Hạ sau đổi thành Việt Yên Hạ).
Xã Việt Yên Hạ gồm 3 làng: Quế Lĩnh, Quế Mỹ và Trinh Liệt. Quế Lĩnh và Quế Mỹ sau gộp lại thành làng Tùng Ảnh. Còn Trinh Liệt thì đổi tên thành Trinh Nguyên và tách thành hai thôn: Trinh Liệt Tây (sau nhập vào làng Tùng Ảnh), Trinh Liệt Đông (sau nhập vào làng Đông Thái). Phía Đông Việt Yên Hạ là xã Yên Đồng gồm các làng Đông Thái5, Yên Hội và Yên Nội. Hai xã nối liền thành dải đất thuộc duyên giang của xã Tùng Ảnh ngày nay.
Việc phân chia địa giới hành chính trên vùng Việt Yên Hạ và Yên Đồng có sự thay đổi đáng kể từ triều Hậu Lê cho đến triều Nguyễn. Tuy nhiên, do tư liệu lưu trữ còn thiếu nên nội dung trình bày trên đây chỉ mang tính khái quát. Nhưng dù sao cũng có thể khẳng định Việt Yên Hạ và Yên Đồng là hai bộ phận chủ yếu cấu thành của xã Châu Phong sau thắng lợi của Cách mạng tháng 8/1945 và nay là xã Tùng Ảnh.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, chính quyền về tay Nhân dân. Dưới sự quản lý của Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa, xã Châu Phong được thành lập, gồm 9 thôn: Châu Tùng, Châu Trinh, Châu Đông, Châu Hội, Châu Nội, Châu Vọng, Châu Dương, Châu Thạch và Châu Lĩnh. Theo thời gian, cùng với sự phát triển của dân số, địa bàn dân cư được mở rộng, một số đơn vị hành chính cấp thôn mới được thành lập, như: Châu Thành, Châu Tượng, Châu Lệ, Châu Thông, Châu Tự... Đến tháng 7/1947, thôn Châu Lĩnh (thuộc xã Nê Lĩnh trước đây) được sáp nhập vào xã Châu Phong3.
Tháng 7/1953, sau khi hoàn thành công cuộc “triệt để giảm tô, thực hiện giảm tức và thoái tô” (được triển khai từ tháng 3/1953), thực hiện chủ trương của Trung ương chia các xã lớn thành xã nhỏ cho phù hợp với năng lực quản lý của cán bộ xã lúc bấy giờ để tăng cường hơn nữa sức mạnh cho cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn tổng phản công ở các địa phương trong vùng tự do Liên Khu 4, xã Châu Phong được tách thành hai xã: xã Đức Sơn và xã Đức Phong4.
Xã Đức Sơn gồm các thôn thuộc dải duyên sơn: từ thôn Châu Lĩnh đến hết địa phận thôn Châu Đình (một nửa thôn Châu Tùng cũ). Xã Đức Phong gồm các thôn còn lại của dải duyên giang. Hai xã phát triển độc lập từ đó cho đến tháng 4/1978.
Tháng 4/1978, thể theo nguyện vọng chung của Nhân dân, được sự đồng ý của cấp trên, hai xã Đức Sơn và Đức Phong tái hợp nhất thành xã Tùng Ảnh cho đến ngày nay.
Như vậy, trải qua bao biến thiên của lịch sử, Tùng Ảnh từ vị thế (tên gọi) của một làng đã trở thành tên chung của một xã. Đây là sự kiện mang ý nghĩa to lớn trong đời sống tinh thần và vật chất của Nhân dân Việt Yên Hạ - Yên Đồng - Châu Phong - Đức Sơn, Đức Phong - Tùng Ảnh.
Sau sáp nhập, xã tiếp tục ổn định các thôn. Từ năm 1995 đến năm 2012, xã có 17 thôn: Châu Nội, Hội Đông, Hội Tây, Đông Thái 1, Đông Thái 2, Châu Trinh, Châu Đình, Châu Trung, Hà Châu, Châu Linh, Thạch Thành, Vọng Sơn, Thông Tự, Sơn Lệ, Châu Dương, Châu Tượng và Châu Lĩnh.
Từ năm 2012, được sự chỉ đạo của cấp trên, Tùng Ảnh triển khai sáp nhập từ 17 thôn xuống còn 12 thôn cho đến ngày nay. Đó là các thôn Yên Hội, Châu Nội, Đông Thái, Châu Trinh, Châu Tùng, Châu Linh, Vọng Sơn, Thông Tự, Sơn Lễ, Dương Tượng, Thạch Thành, Châu Lĩnh.
Đến tháng 12 năm 2020, dân số của 12 thôn trong xã khoảng 6.200 người.
3 Ý của các Nho sĩ là cả 3 con sông này đều muốn được tự mình tưới tắm phù sa cho mãnh đất thiêng Đức Thọ nói chung và Tùng Ảnh nói riêng (tranh châu - tranh giành vật quý).
4 Tùng Lĩnh là ngọn núi đầu tiên của dãy Trà Sơn (núi thấp) nằm trên đất Tùng Ảnh, nơi thực dân Pháp xây dựng đồn binh Linh Cảm.
1, 2 Duyên sơn hay duyên giang, duyên hải là từ Hán chỉ các dải đất dọc núi, dọc sông, dọc biển.
1 Gió Tây Nam xuất phát từ Ấn Độ Dương; khi vượt qua dãy Trường Sơn, tạo ra mưa lớn ở sườn Tây - nước Lào nên bị biến tính trở nên khô, do đó khi vào Việt Nam kết hợp với nắng nóng tạo ra hiệu ứng “phơn”: khô và nóng - oi nồng.
1 Châu Lĩnh thuộc xã Nê Lĩnh trước đây.
2 Hệ thống thủy lợi Linh Cảm được Nhà nước xếp vào loại trung thủy nông, Trạm bơm đầu nguồn đặt tại Linh Cảm thuộc xã Tùng Ảnh, được xây dựng từ 1963 - 1966, nhằm cung cấp nước phục vụ sản xuất nông nghiệp cho các huyện Đức Thọ, Can Lộc và một phần huyện Thạch Hà. Hiện nay, Kênh Linh Cảm đang được xây dựng thành kênh tự chảy, lấy nguồn nước từ thủy điện Ngàn Trươi - Cẩm Trang nên Trạm bơm Linh Cảm đã ngừng vận hành từ năm 2021.
3 Ga Yên Trung và ga Hương Phố là các đầu mối giao thông đường sắt quan trọng của Hà Tĩnh.
4 Theo “Yên Hội thôn chí” của Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch.
5 "Yên Hội thôn chí" của Hoàng Giáp Bùi Dương Lịch (1757 - 1828) chép rằng: Năm Giáp Dần (1614), đời vua Lê Kính Tông (1599 - 1619), chính quyền địa phương đã cho đổi xóm Quần Hội thành thôn Yên Hội, cho tách xóm Trinh Liệt Đông của xã Yên Việt để thành lập thôn Đông Thái (với nghĩa là vùng đất đông người, thái bình, thịnh vượng).
3 Các địa danh này được đặt sau cách mạng tháng Tám 1945.
4 Theo quy định lúc bấy giờ, chữ đầu tên các xã của huyện Đức Thọ phải là chữ Đức, chữ thứ hai do xã chọn: thường các xã lấy theo chữ mang truyền thống văn hóa trong tiến trình lịch sử hay mang đặc tính của vùng đất.